Sáng nay, ngày 10/5, tại Trung tâm văn hóa Kinh Bắc, TP Bắc Niinh, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp UBND tỉnh Bắc Ninh tổ chức Hội nghị triển khai Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia tại cùng các văn bản liên quan như Nghị quyết số 193/2025/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 71/NQ-CP của Chính phủ.
Đây là sự kiện quan trọng nhằm quán triệt, cụ thể hóa các định hướng lớn vào thực tiễn ngành nông nghiệp và môi trường, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững trong bối cảnh mới.
Hội nghị diễn ra theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến, quy tụ khoảng 500 đại biểu đến từ các Bộ, ngành Trung ương, cơ quan Quốc hội, địa phương, viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp, hợp tác xã và các tổ chức quốc tế, như: Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Australia (ACIAR), Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI), Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực Quốc tế (IFPRI), Viện Nghiên cứu Chăn nuôi Quốc tế (ILRI)…
Đặc biệt, hội nghị còn có sự tham gia điều hành của lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường và lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh, địa phương đăng cai tổ chức.

Toàn cảnh hội nghị tại đầu cầu Trung tâm Văn hóa Kinh Bắc (TP. Bắc Ninh), sáng 10/5.
Chương trình hội nghị bao gồm 2 phần chính. Phiên toàn thể vào buổi sáng và các phiên chuyên đề buổi chiều. Tại phiên toàn thể, đại biểu sẽ được nghe trình bày về thực trạng và giải pháp phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; định hướng của Quốc hội và Chính phủ đối với lĩnh vực này; cùng các tham luận từ doanh nghiệp, địa phương và đơn vị ngành dọc.
Phiên chuyên đề buổi chiều chia thành 4 nhóm trọng tâm: (1) Trồng trọt - Bảo vệ thực vật - Lâm nghiệp; (2) Chăn nuôi - Thú y - Thủy sản; (3) Môi trường - Tài nguyên nước; (4) Thủy lợi - Phòng, chống thiên tai - Biến đổi khí hậu. Tại đây, các đại biểu sẽ thảo luận về các định hướng nghiên cứu, cơ chế chính sách, ứng dụng công nghệ tiên tiến, thúc đẩy thương mại hóa sản phẩm khoa học phục vụ phát triển ngành.

Hội trường Trung tâm Văn hóa Kinh Bắc (TP. Bắc Ninh), sáng 10/5.
Song song với nội dung nghị sự, khu trưng bày thành tựu khoa học công nghệ tiêu biểu trong nông nghiệp và môi trường cũng sẽ được mở cửa phục vụ đại biểu và khách tham quan, qua đó tăng cường kết nối, lan tỏa tri thức, thúc đẩy hợp tác giữa các bên. Ngoài ra, sự kiện còn là dịp để ký kết các thỏa thuận hợp tác chiến lược nhằm triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW trên toàn ngành.
Với tinh thần hành động mạnh mẽ, Hội nghị kỳ vọng sẽ tạo ra xung lực mới để khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở thành nền tảng phát triển nông nghiệp xanh, kinh tế tuần hoàn, quản lý tài nguyên hiệu quả và bảo vệ môi trường bền vững.
Tổng thuật nội dung Hội nghị:
8 giờ 10 phút

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy phát biểu khai mạc Hội nghị triển khai Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW.
Tại Hội nghị triển khai Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong ngành Nông nghiệp và Môi trường, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhấn mạnh, chuyển đổi số hiện nay không còn là xu hướng mà đã trở thành yêu cầu tất yếu.
Trong bối cảnh ngành đang đối mặt với nhiều thách thức như biến đổi khí hậu gay gắt, tài nguyên suy giảm và áp lực tăng trưởng xanh, các mô hình sản xuất truyền thống không còn phù hợp. Do đó, để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm và bảo vệ môi trường sống, toàn ngành cần đổi mới tư duy và lấy khoa học công nghệ, chuyển đổi số làm nền tảng phát triển.
Bộ trưởng cho rằng, dù thời gian qua ngành nông nghiệp và môi trường đã đạt một số kết quả tích cực như triển khai nông nghiệp công nghệ cao, ứng dụng cảm biến trong giám sát môi trường, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai và khí tượng, nhưng để đạt được “đột phá phát triển” như yêu cầu của Nghị quyết, vẫn còn rất nhiều việc phải làm.
Tư lệnh ngành Nông nghiệp và Môi trường đề xuất 5 nhóm giải pháp then chốt: hoàn thiện thể chế để tháo gỡ các rào cản, cải cách tổ chức nghiên cứu theo hướng tinh gọn và tự chủ, thay đổi cách thức đặt hàng nhiệm vụ khoa học công nghệ gắn với thực tiễn sản xuất, phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn sâu và đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện.
Bộ đã ban hành kế hoạch triển khai cụ thể tại Quyết định số 503/QĐ-BNNMT, xác định 7 nhóm nhiệm vụ trọng tâm. Bộ trưởng kêu gọi sự đồng hành, phối hợp của các địa phương, doanh nghiệp, viện trường, hiệp hội và tổ chức quốc tế để tạo bước chuyển thực chất, bền vững cho ngành nông nghiệp và môi trường. Nhân dịp Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam (18/5), Bộ trưởng Đỗ Đức Duy gửi lời tri ân tới cộng đồng các nhà khoa học và chuyên gia đã cống hiến cho sự nghiệp phát triển của đất nước.
8 giờ 30 phút
Bắc Ninh phát triển nông nghiệp xanh, quản lý môi trường số

Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Vương Quốc Tuấn cam kết, tỉnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất để các sáng kiến, kết quả nghiên cứu, giải pháp đột phá về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được đưa vào ứng dụng thực tiễn.
Phát biểu chào mừng Hội nghị, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Vương Quốc Tuấn nhấn mạnh, đây là cơ hội quý giá để Bắc Ninh và ngành Nông nghiệp và Môi trường Bắc Ninh được tiếp cận những tâm huyết chuyên sâu từ các nhà khoa học, chuyên gia và chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn từ các địa phương, doanh nghiệp, viện trường nhằm cụ thể hóa các Nghị quyết thành các chương trình, đề án, mô hình triển khai hiệu quả tại địa phương.
Theo ông Vương Quốc Tuấn, trong bối cảnh ngành nông nghiệp đứng trước yêu cầu chuyển đổi mạnh mẽ nhằm đáp ứng các xu thế mới của phát triển bền vững, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế, việc phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số không còn là sự lựa chọn, mà là yêu cầu bắt buộc, là động lực then chốt để nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng năng suất lao động, bảo vệ tài nguyên, môi trường và chất lượng sống của người dân.
Thực hiện Nghị quyết 57, Nghị quyết 193, Nghị quyết 71, tỉnh Bắc Ninh tập trung vào chuyển đổi mô hình từ sản xuất truyền thống sang nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, hướng tới nền nông nghiệp bền vững và thân thiện với môi trường. Tỉnh đang hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân tiếp cận các công nghệ mới như: cảm biến giám sát độ ẩm, hệ thống tưới tự động, ứng dụng AI trong phân tích sâu bệnh, sử dụng dữ liệu vệ tinh và bản đồ số để dự báo sản lượng cây trồng, cũng như truy xuất nguồn gốc sản phẩm qua mã QR.
Bắc Ninh khuyến khích các mô hình hợp tác công - tư trong nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, nhất là trong lai tạo giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất lượng cao, phù hợp với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng của tỉnh.
“Trong thời gian tới, chúng tôi chú trọng phát triển nông nghiệp, nông thôn theo chiều sâu, bền vững; trọng tâm là phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, gắn với nông nghiệp sinh thái, trải nghiệm, nông nghiệp đô thị; thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa ngành nông nghiệp và các ngành thương mại, dịch vụ - du lịch… xây dựng và phát triển các mặt hàng nông sản chủ lực chất lượng, có thương hiệu gắn với quy trình chế biến, bảo quản và xuất khẩu giá trị cao…”, ông Vương Quốc Tuấn cho biết.
Về lĩnh vực môi trường, Bắc Ninh đang xây dựng nền tảng dữ liệu số tổng hợp về môi trường và đất đai, phục vụ công tác quy hoạch, kiểm soát ô nhiễm, và quản lý biến đổi khí hậu trên địa bàn. Tất cả các cơ quan quản lý Nhà nước về tài nguyên và môi trường đang từng bước chuyển đổi từ mô hình quản lý truyền thống sang quản lý số hóa, minh bạch, công khai và phục vụ người dân, doanh nghiệp tốt hơn. Bắc Ninh cũng là địa phương đi đầu hoàn thành xử lý ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại các làng nghề truyền thống và các khu vực trên địa bàn tỉnh.
Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh cam kết, địa phương sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất để các sáng kiến, kết quả nghiên cứu, giải pháp đột phá về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được đưa vào ứng dụng thực tiễn, góp phần nâng cao năng lực nội sinh, sức cạnh tranh, đưa nông nghiệp Bắc Ninh phát triển hiện đại, bền vững và thân thiện với môi trường.
8 giờ 50 phút
Không sở hữu nền KHCN hiện đại sẽ không có vị thế bền vững

TS Phan Xuân Dũng khẳng định, không có tổ chức hay quốc gia nào đạt được vị thế bền vững nếu không sở hữu nền KHCN hiện đại.
Phát biểu tại Hội nghị triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, TS Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, khẳng định Nghị quyết 57 phù hợp với xu thế phát triển toàn cầu, đặt khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển đất nước.
Theo TS Dũng, không có tổ chức hay quốc gia nào đạt được vị thế bền vững nếu không sở hữu nền KHCN hiện đại. Nghị quyết 57 thể hiện tầm nhìn đột phá khi xác định đây là cuộc cách mạng, trong đó nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, còn nhà khoa học là lực lượng chủ lực. Đặc biệt, việc từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm” sẽ mở đường cho nhiều mô hình đổi mới hiệu quả. Mục tiêu lọt vào top 50 quốc gia có năng lực cạnh tranh KHCN hàng đầu là hoàn toàn khả thi nếu tận dụng tốt các cơ hội hiện có.
TS Dũng cũng nhấn mạnh vai trò nền tảng của ngành nông nghiệp và môi trường. Từ một quốc gia thiếu ăn, Việt Nam đã vươn lên top 15 nước xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới, góp phần đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu. Mặc dù tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm, ngành này vẫn giữ vai trò trụ đỡ an sinh xã hội, cung cấp việc làm và ổn định đời sống cho hàng triệu người dân.
Trong lĩnh vực môi trường, Việt Nam kiên định với quan điểm không đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế, chuyển hướng sang kinh tế tuần hoàn, coi chất thải là tài nguyên - những định hướng sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nếu thực thi tốt Nghị quyết 57.
Về phía Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, với 3,7 triệu hội viên, trong đó có hơn 2,2 triệu trí thức và 574 tổ chức KHCN trên cả nước, TS Dũng cho biết tổ chức đã xây dựng được phong trào nghiên cứu sâu rộng, thu hút đông đảo lực lượng trong các lĩnh vực then chốt như nông nghiệp và môi trường. Đáng chú ý, ngày càng nhiều doanh nhân kiêm nhà khoa học đã góp phần tạo dựng thương hiệu doanh nghiệp song hành với phát triển quốc gia. Bên cạnh nguồn vốn Nhà nước, Liên hiệp còn huy động được nguồn lực xã hội hóa lớn gấp hàng chục lần.
TS Dũng kiến nghị các Bộ, ngành tăng cường đặt hàng nghiên cứu, sử dụng hiệu quả kết quả khoa học, đặc biệt trong các lĩnh vực phát sinh từ thực tiễn như xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường. Cùng với đó, cần đẩy mạnh truyền thông phổ biến tri thức đến người dân ở vùng sâu, vùng xa, và tôn vinh đội ngũ trí thức để tạo thêm động lực phát triển trong kỷ nguyên mới.
9 giờ 20 phút

TS. Nguyễn Phú Tiến, Phó Cục trưởng, Cục Chuyển đổi số Quốc gia, Bộ KHCN cho rằng, sẽ không có đột phá nào xảy ra nếu thiếu con người.
TS. Nguyễn Phú Tiến, Phó Cục trưởng, Cục Chuyển đổi số Quốc gia, Bộ KHCN khẳng định: “Chữ đầu tiên của Nghị quyết 57 là ‘đột phá’ - điều đó không phải ngẫu nhiên.” Bởi đây chính là tinh thần xuyên suốt trong hệ thống các nghị quyết như Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 193/2025/QH15, Nghị quyết 100, Nghị quyết 71/NQ-CP và Nghị định 88/2025/NĐ-CP - những văn bản thể hiện rõ khát vọng đưa đất nước vươn lên bằng động lực từ khoa học công nghệ và nhân lực chất lượng cao.
Nghị quyết 57 xác lập 5 quan điểm nền tảng, trong đó đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được coi là động lực chính để thúc đẩy lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất. Đây không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật mà còn là một yêu cầu chính trị - xã hội, đòi hỏi sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và sự tham gia đồng bộ của cả hệ thống chính trị.
Ngay sau khi Nghị quyết 57 được ban hành, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 03 (tháng 1/2024) và Nghị quyết 71 (tháng 4/2024) để cụ thể hóa các nhiệm vụ, thể hiện tinh thần hành động khẩn trương. Nghị quyết 71 xác định 7 nhóm nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nhấn mạnh việc thay đổi tư duy lãnh đạo, nâng cao nhận thức xã hội và phát triển hạ tầng khoa học công nghệ.
Các mục tiêu quốc gia được đặt ra mang tính “cách mạng”: đến năm 2030, Việt Nam nằm trong Top 50 về Chính phủ số, dẫn đầu ASEAN về nghiên cứu trí tuệ nhân tạo, có tối thiểu 5 doanh nghiệp công nghệ số đẳng cấp quốc tế, kinh tế số chiếm 30% GDP. Tầm nhìn đến 2045, mục tiêu còn cao hơn - đóng góp 50% GDP từ kinh tế số, có hàng chục doanh nghiệp công nghệ đạt chuẩn toàn cầu, trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao.“Chúng tôi sợ những chỉ tiêu này, bởi nó rất cao, rất khó. Nhưng nếu không dám đặt ra, không dám thực hiện, thì sẽ chẳng bao giờ có đột phá thực sự”, ông Tiến cho biết.
Không có đột phá nào xảy ra nếu thiếu con người. Trong chuỗi giải pháp, yếu tố nhân lực - đặc biệt là nhân tài – được nhấn mạnh như trụ cột phát triển. Theo tinh thần các nghị quyết, thể chế, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ là bốn trụ chính, nhưng tất cả đều phải xoay quanh con người. “Người đứng đầu phải vào cuộc, trực tiếp chỉ đạo, sử dụng thành thạo công nghệ và chịu trách nhiệm”, ông Tiến phát biểu khẳng định rõ quan điểm về vai trò lãnh đạo và năng lực sử dụng công nghệ trong bộ máy công.
Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng văn bản quy định trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác chuyển đổi số – một bước đi được kỳ vọng sẽ làm rõ vai trò, khuyến khích năng lực và tinh thần đổi mới trong hệ thống công quyền.
Bên cạnh đó, phong trào học tập trên nền tảng số, các chương trình phổ cập kiến thức về công nghệ số cho cán bộ công chức, doanh nghiệp và người dân được triển khai đồng bộ, thu hút hàng chục triệu lượt tiếp cận. Hạ tầng số và trí tuệ nhân tạo không thể phát triển nếu thiếu nền tảng tri thức rộng khắp và khả năng hấp thụ công nghệ của toàn xã hội.
Đáng chú ý, các chính sách đột phá về tài chính, thể chế cũng đang được xây dựng nhằm tháo gỡ rào cản pháp lý, thử nghiệm công nghệ mới, miễn trừ trách nhiệm khi mô hình đổi mới không thành công, và quan trọng nhất: tạo không gian sáng tạo an toàn và khuyến khích mạo hiểm cho doanh nghiệp và nhân tài.
Hành trình chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số và xây dựng quốc gia đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng ở kế hoạch hay khẩu hiệu. Đó là chặng đường của sự dấn thân, của đổi mới tư duy, hành động quyết liệt và đặc biệt là trọng dụng người tài như một chiến lược sống còn.
“Không có doanh nghiệp đột phá nếu thiếu người tài. Không có chính phủ số nếu thiếu lãnh đạo am hiểu công nghệ. Và càng không thể có quốc gia sáng tạo nếu không có nền giáo dục và chính sách tuyển dụng khuyến khích trí tuệ”, TS. Nguyễn Phú Tiến nói.
9 giờ 30 phút
9 giờ 50 phút
PGS.TS Phạm Doãn Lân (Phó Viện trưởng Viện chăn nuôi) báo cáo trước Hội nghị về kết quả nghiên cứu nhân bản lợn ỉ bằng kỹ thuật cấy chuyển nhân tế bào soma.

PGS.TS Phạm Doãn Lân (Phó Viện trưởng Viện chăn nuôi) trình bày báo cáo tại Hội nghị.
Theo PGS.TS Phạm Doãn Lân, công nghệ nhân bản động vật đang được ứng dụng gồm Công nghệ nhân bản bằng cách chia tách phôi, cấy chuyển nhân từ các tế bào phôi đã được thực hiện thành công trên 50 năm.
Nhân bản động vật bằng cấy chuyển nhân tế bào soma ở động vật có vú thành công đầu tiên năm 1996, tới nay đã có trên 20 loài nhân bản thành công. Tại Việt Nam đã có nhiều chuyên gia, nhà khoa học ứng dụng công nghệ này như ở cá chạch (năm 1978); nhân bản thành công trên bò sữa bằng công nghệ cắt phôi; công nghệ nhân bản trên bò, lợn… nhưng cũng chỉ dừng lại ở giai đoạn tạo phôi nhân bản, chưa tạo được động vật nhân bản; đề tài nhân bản trên bò…
Ở Viện Chăn nuôi, từ tháng 7/2017 đã thực hiện đề tài nghiên cứu tạo lợn ỉ nhân bản bằng kỹ thuật cấy chuyển nhân tế bào soma được triển khai thực hiện tại Phòng thí nghiệm trọng điểm và Trạm nghiên cứu và phát triển giống lợn hạt nhân Thụy Phương.
Quy trình nhân bản lợn ỉ giống quy trình chung như tạo ra cừu Dolly nhưng đã có sự cải biến để phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam. Viện đã có cách tiếp cận mới bằng việc loại nhân, loại trứng màng sáng… giúp cải thiện năng suất.
Tới nay, Viện đã nghiên cứu hoàn thiện quy trình tạo giống lợn ỉn tổng số 14 con; bảo quản tinh 900 liều, tỷ lệ sống sau giải đông từ 35-40%. Lợn ỉ con sinh ra từ lợn ỉ cái nhân bản được thụ tinh nhân tạo với tinh trùng lợn ỉ đực nhân bản sau khi giải đông phát triển bình thường.
Theo ông Lân, triển vọng ứng dụng công nghệ nhân bản động vật trong chọn giống giúp bảo tồn các động vật quý hiếm, nhân rộng nhanh chóng các đặc tính di truyền tốt. Kết hợp công nghệ nhân bản động vật công nghệ chỉnh sửa gen để tạo ra các giống vật nuôi có năng suất cao, có khả năng kháng bệnh, thích ứng với biến đổi khí hậu, phục vụ y học (cấy ghép nội tạng).
10 giờ 00 phút
Công nghệ chỉnh sửa gen, đặc biệt là hệ thống CRISPR/Cas9, đang mở ra một kỷ nguyên mới cho chọn tạo giống cây trồng, trong đó giống cây bản địa là một trong những đối tượng hưởng lợi rõ nét.
Với khả năng tạo ra đột biến chính xác, nhanh, chi phí thấp và không cần đưa DNA ngoại lai vào cây, công nghệ này cho phép giữ lại các đặc tính quý giá của giống bản địa trong khi cải thiện được các tính trạng quan trọng như năng suất, chất lượng, khả năng chống chịu sâu bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu.
“Đây là hướng tiếp cận khác biệt so với công nghệ biến đổi gen truyền thống và được nhiều quốc gia trên thế giới ưu tiên phát triển”, TS Đỗ Tiến Phát, Trưởng phòng Công nghệ tế bào thực vật tại Viện Công nghệ sinh học (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam), nói.

TS Đỗ Tiến Phát cho rằng, "một khung pháp lý rõ ràng sẽ là nền tảng để kết nối nghiên cứu - quản lý - doanh nghiệp, giúp đưa các sản phẩm từ phòng thí nghiệm nhanh chóng ra thị trường".
Theo ông Phát, nhiều nghiên cứu trong nước đã chứng minh tiềm năng ứng dụng rộng lớn của công nghệ này. Một số giống cây trồng bản địa như cà chua, đậu tương, đu đủ… đã được chỉnh sửa thành công để cải thiện hàm lượng đường, acid amin, giảm các hợp chất khó tiêu hoặc nâng cao khả năng kháng virus.
Tuy nhiên, số lượng các đơn vị nghiên cứu ở Việt Nam có thể làm chủ và ứng dụng thành công công nghệ chỉnh sửa gen vẫn còn rất hạn chế. Trong khi đó, xu thế trên thế giới đang tiến rất nhanh, với nhiều sản phẩm chỉnh sửa gen đã được thương mại hóa tại Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc hay Brazil.
Việt Nam hiện vẫn chưa có đầu tư tương xứng cho lĩnh vực này, cả về hạ tầng, nhân lực và chính sách. Các nghiên cứu chủ yếu vẫn dừng lại trong phòng thí nghiệm, chưa thể chuyển sang quy mô sản xuất đại trà. Một trong những nguyên nhân quan trọng là khung pháp lý hiện hành chưa tách bạch rõ ràng giữa cây trồng chỉnh sửa gen và cây trồng biến đổi gen. Việc thiếu hành lang pháp lý cụ thể khiến các nhà khoa học, cơ quan quản lý và doanh nghiệp đều gặp khó trong việc tiếp cận và triển khai các sản phẩm tiềm năng.
Để công nghệ này thực sự phát huy hiệu quả trong cải tạo giống cây trồng bản địa, vốn có vai trò then chốt trong chiến lược nông nghiệp sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học, cần có những chính sách hỗ trợ thiết thực và kịp thời. Đề xuất từ giới nghiên cứu là cần tiếp tục được đầu tư cho các nhóm nghiên cứu trong nước, đồng thời mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế có kinh nghiệm về chỉnh sửa gen. Bên cạnh đó, rất cần một cơ chế quản lý minh bạch, linh hoạt để đánh giá, cấp phép và sử dụng giống cây trồng chỉnh sửa gen phù hợp với thông lệ quốc tế.
“Một khung pháp lý rõ ràng sẽ là nền tảng để kết nối nghiên cứu - quản lý - doanh nghiệp, giúp đưa các sản phẩm từ phòng thí nghiệm nhanh chóng ra thị trường”, ông Phát nhấn mạnh và xem đây là bước đi chiến lược để nâng cao năng lực chọn tạo giống trong nước, khai thác hiệu quả nguồn gen bản địa, góp phần vào phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, xanh và có giá trị gia tăng cao.
10 giờ 10 phút
Tại Hội nghị, ông Nguyễn Đức Trường, Tổng giám đốc Công ty Đại Thành trình bày giải pháp Hệ thống vị trí chính xác thời gian thực DTALS phục vụ nông nghiệp thông minh và các ngành kinh doanh.

Ông Nguyễn Đức Trường, Tổng giám đốc công ty Cổ phần Đại Thành, trình bày giải pháp vị trí chính xác thời gian thực DTALS phục vụ nông nghiệp thông minh.
Theo ông Trường, nền nông nghiệp thế giới tới năm 2050 sẽ chịu áp lực bởi các vấn đề: nhu cầu lương thực toàn cầu cho khoảng 10 tỷ người; nguồn tài nguyên nông nghiệp ngày càng hạn chế; thiếu lao động nông nghiệp; biến đổi khí hậu, dịch bệnh; chiến tranh; đứt gãy chuỗi cung ứng.
Để giải quyết những vấn đề này, nông nghiệp chính xác sẽ trở thành xu thế tất yếu không thể đảo ngược trong đó có sự hỗ trợ từ các công nghệ mới (IoT - internet vạn vật); Big Data (dữ liệu lớn), AI phân tích dữ liệu…
Vấn đề hiện tại mà ngành nông nghiệp đang gặp phải, đó là sự thiếu chính xác trong quá trình vận hành của máy móc nông nghiệp, như: máy cấy không biết đi thẳng hàng, drone không bay được chính xác, máy gặt không tính được năng suất, máy cày không biết độ nông sâu…
Là một trong những đơn vị tiên phong trong ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp, mục tiêu của Đại Thành là nghiên cứu, cung cấp, chuyển gia các sản phẩm công nghệ như drone nông nghiệp, thiết bị dẫn đường không người lái trên máy nông nghiệp trên mặt đất, san phẳng đất vệ tinh… Những thiết bị này đều bắt buộc phải dùng dịch vụ DTALS.
Theo đó, DTALS gồm 3 lớp: lớp thu tín hiệu, lớp trung tâm xử lý dữ liệu; lớp ứng dụng với các hạ tầng công nghệ: hệ thống thông tin địa lý GIS - Cơ sở dữ liệu không gian - các kỹ thuật cung cấp số liệu PNT, khí tượng thời tiết - dịch vụ internet - GIS di động…
Hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ DATLS giúp tăng năng suất, điều khiển chính xác máy móc, tối ưu tài nguyên; tăng năng suất từ 15-20% quan cánh đồng mẫu; giúp tiết kiệm chi phí 15-25% chi phí đầu vào (phân bón, thuốc trừ sâu, nhiên liệu); giảm thiểu ô nhiễm môi trường; nâng cao cạnh tranh (chất lượng sản phẩm đồng đều, đáp ứng thị trường xuất khẩu; truy xuất nguồn gốc minh bạch, xây dựng thương hiệu... của nông sản.
10 giờ 20 phút
Theo GS.TS Nguyễn Việt Anh, Viện trưởng Viện Khoa học và Kỹ thuật Môi trường (Trường Đại học Xây dựng Hà Nội), hiện có nhiều chất ô nhiễm công nghiệp có khả năng xuyên qua hệ thống xử lý mà không bị loại bỏ bằng các phương pháp thông thường, tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe nhiều thế hệ.

GS.TS. Nguyễn Việt Anh, Trưởng Bộ môn Cấp thoát nước, Viện trưởng Viện KHKT Môi trường (Trường Đại học Xây dựng Hà Nội) trình bày về ứng dụng khoa học công nghệ trong kiểm soát ô nhiễm nước thải công nghiệp
Để kiểm soát hiệu quả, ba xu hướng đang được quan tâm là: nâng cao hiệu quả xử lý, tăng cường thu hồi chất có ích từ bùn thải, và thúc đẩy các công nghệ “xanh và thông minh” như màng lọc tiên tiến, AI, IoT trong giám sát và tái sử dụng.
Một trong những công nghệ nổi bật hiện nay là sử dụng bọt mịn và bọt siêu mịn để xử lý nước thải. Với kích thước chỉ từ vài micromet đến nanomet, các bọt khí này tạo ra diện tích tiếp xúc lớn, giúp tăng hiệu quả tách lọc và phân hủy chất ô nhiễm.
Khi vỡ ra, bọt siêu mịn giải phóng năng lượng, kích hoạt phản ứng sinh học và hóa học mà không cần hóa chất độc hại. Công nghệ này không chỉ thân thiện môi trường, mà còn giảm bùn thải, tiết kiệm chi phí vận hành và có thể ứng dụng linh hoạt trong công nghiệp và nông nghiệp tuần hoàn.
Song song đó, nhiều đơn vị đang triển khai mô hình cá chỉ thị sinh học nhằm giám sát chất lượng nước sau xử lý. Dựa trên phản ứng sinh học tự nhiên, nếu cá có biểu hiện bất thường như mất phương hướng, giảm ăn hay đổi màu da, điều đó cho thấy nước có dấu hiệu ô nhiễm. Các tín hiệu này được ghi nhận tự động, giúp cảnh báo sớm và kịp thời điều chỉnh hệ thống xử lý.
Theo ông Việt Anh, việc kết hợp công nghệ bọt siêu mịn với chỉ thị sinh học, cảm biến thời gian thực và nền tảng dữ liệu số sẽ tạo ra hệ thống cảnh báo thông minh, nâng cao năng lực kiểm soát rủi ro môi trường.
Đại diện Đại học Xây dựng Hà Nội kiến nghị Nhà nước cần phát triển các chương trình khoa học công nghệ quy mô lớn, mang tính liên ngành và hệ thống, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia nhằm tránh chồng chéo và tăng hiệu quả ứng dụng thực tiễn.