Philippines tạm ngừng nhập khẩu gạo từ đầu tháng 9/2025, nhưng thị trường Việt Nam vẫn ổn định nhờ dự trữ quốc gia, liên kết sản xuất và lợi thế vụ thu đông.
Người dân không cần lo lắng
Việc Philippines và Indonesia đồng loạt tạm ngừng nhập khẩu gạo từ đầu tháng 9/2025 đã khiến thị trường có phần chao đảo trong thời gian ngắn. Song nhiều tiếng nói từ doanh nghiệp và hiệp hội đã trấn an, rằng cú hẫng này không quá lớn. Bởi chuỗi sản xuất - tiêu thụ của Việt Nam vẫn đang vận hành, dự trữ quốc gia đã kịp thời vào cuộc và những thị trường khác bắt đầu bật đèn xanh.
Quyền Bộ trưởng Trần Đức Thắng: 'Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa có thêm 5 tham tán nông nghiệp, hỗ trợ xuất khẩu nông, lâm, thủy sản, trong đó có gạo'. Ảnh: Bảo Thắng.
“Cứ dân có gạo là chúng tôi mua. Người dân không cần lo lắng về chuyện bán lúa”, bà Bùi Thị Thanh Tâm, Chủ tịch Vinafood1 chia sẻ tại cuộc họp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường sáng 11/9. Con số tồn kho hàng trăm nghìn tấn được bà đưa ra như một tấm đệm an toàn, cho thấy doanh nghiệp Nhà nước này đã liên tục tổ chức tạm trữ, thu mua cho nông dân, giữ nguồn hàng và ổn định giá.
Điều bà Tâm lo ngại nhất không nằm ở đầu ra, mà ở dòng tiền bị nghẽn bởi cơ chế hoàn thuế VAT từ 1/7. Doanh nghiệp xuất khẩu đang bị phụ thuộc vào thương lái trong khâu hoàn thành nghĩa vụ thuế, nhưng “sức khỏe của thương lái thế nào thì không ai biết trước”, bà thẳng thắn.
Ở phía Nam, ông Trần Tấn Đức, Thành viên HĐQT Tổng công ty Lương thực miền Nam, mang đến một bức tranh nhiều sắc độ hơn. Ông nói, sau khi giảm hơn 1.000 đồng/kg vào thời điểm Philippines và Indonesia công bố sắc lệnh, giá lúa đã nhích thêm khoảng 500 đồng/kg, nhờ châu Phi nhập khẩu trở lại và nguồn dự trữ quốc gia được kích hoạt.
Đến ngày 11/9, mức giá cao nhất của lúa chất lượng cao ghi nhận vượt 6.000 đồng/kg, còn lúa thường dao động quanh mức 5.000 đồng/kg. Thu mua dự trữ quốc gia rất quan trọng, có thể kích giá gần như tức thì”, ông Đức nhấn mạnh. Dù vậy, Philippines vẫn là thị trường trọng điểm, chưa thể thay thế ngay trong ngắn hạn.
Những con số lên xuống cũng kéo ông Đức tới nỗi lo tồn kho và đề xuất Nhà nước đẩy nhanh hoàn thuế VAT, nới hạn mức tín dụng để doanh nghiệp giữ dòng tiền. Ông đồng thời nhắc đến chương trình 1 triệu ha lúa chất lượng cao, giảm phát thải tại vùng ĐBSCL, đồng thời tận dụng các FTA như những "cú hích đường dài" để gạo Việt có thương hiệu và chỗ đứng.
Thứ trưởng Trần Thanh Nam: 'Doanh nghiệp, người dân cần chủ động liên kết sản xuất'. Ảnh: Bảo Thắng.
Với khối tư nhân, ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT kiêm Phó Tổng giám đốc Trung An, lại nhìn nhận nhẹ nhàng hơn: “Vụ hè thu cơ bản đã thu hoạch xong, việc Philippines tạm dừng nhập khẩu không ảnh hưởng nhiều đến kế hoạch xuất nhập khẩu của chúng tôi”.
Bà Nguyễn Thị Thu Hương, Giám đốc kinh doanh Công ty Chơn Chính tại Đồng Tháp kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường gửi công hàm đề nghị cho phép xuất khẩu những hợp đồng gạo đã mở L/C và đặt cọc trước ngày 6/8, để giải phóng tồn kho cho doanh nghiệp. Với bà Hương, đó không chỉ là tháo gỡ hàng nghìn tấn gạo nằm chờ, mà còn là cách giữ uy tín với đối tác quốc tế trong bối cảnh biến động.
Bà Nguyễn Thị Thu Hương, Giám đốc kinh doanh Công ty Chơn Chính tại Đồng Tháp kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường gửi công hàm đề nghị cho phép xuất khẩu những hợp đồng gạo đã mở L/C và đặt cọc trước ngày 6/8, để giải phóng tồn kho cho doanh nghiệp. Ảnh: Bảo Thắng.
Liên kết sản xuất - chìa khóa giữ ổn định thị trường
Sau cú “phanh gấp” từ Philippines, điều khiến cơ quan quản lý và doanh nghiệp bàn nhiều nhất không những là đầu ra tức thời, mà còn là cách tổ chức lại sản xuất để đứng vững khi thị trường đổi chiều. Thứ trưởng Trần Thanh Nam nhấn mạnh mục tiêu kép: giữ ổn định an ninh lương thực trong nước và duy trì giá trị xuất khẩu, với nguyên tắc sản xuất bám nhu cầu, có liên kết chặt và giảm chi phí để tăng sức cạnh tranh.
Theo lịch thời vụ, vụ hè thu cơ bản hoàn tất vào giữa tháng 9, còn vụ thu đông sẽ thu hoạch rộ vào tháng 11,12, với yêu cầu đặt ra là “không để ùn tắc cục bộ” khi lúa tập trung vào nhà máy và kho chứa, đồng thời giữ cơ cấu lúa chất lượng cao làm nền tảng cho cả thị trường nội địa lẫn xuất khẩu.
Bức tranh tiến độ và sản lượng trong báo cáo của Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường củng cố lập luận này. Đến hết tháng 8/2025, cả nước đã thu hoạch 3,13 triệu ha (20,52 triệu tấn), phần còn lại trong năm chủ yếu dồn ở vụ thu đông tại Nam bộ với kế hoạch hơn 708.000 ha, tạo dư địa điều tiết nhịp nhàng nếu chuỗi liên kết vận hành tốt.
Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Huỳnh Tấn Đạt phát biểu. Ảnh: Bảo Thắng.
Tâm điểm của liên kết là chương trình 1 triệu ha lúa chất lượng cao, giảm phát thải ở ĐBSCL. Theo Thứ trưởng Nam, 11 địa phương đã đăng ký khoảng 320.000 ha, mô hình này giúp năng suất tăng 5-10% và chi phí giảm 10–20%.
Khi doanh nghiệp tham gia sâu, “ngay cả lúc giá xuống, nông dân và doanh nghiệp vẫn giữ được một phần doanh thu, thậm chí có lãi so với trước”, bởi ưu tiên số một trong bài toán kinh tế lúa gạo hiện nay là tiết giảm chi phí xuống, siết kỷ luật quy trình và chuẩn hóa chất lượng từ đồng ruộng đến nhà máy.
Chương trình 1 triệu ha lúa, vì thế, được xem như trục liên kết nông dân - HTX - doanh nghiệp để chuyển từ tư duy “bán lúa tươi” sang “bán gạo chất lượng cao, phát thải thấp”, bền đỡ hơn trước cú sốc ngắn hạn của thị trường.
Liên kết cũng không dừng ở hợp đồng bao tiêu. Nó phải kéo theo đầu tư hạ tầng sau thu hoạch như kho chứa chuyên dụng thóc, gạo; dây chuyền xay xát, chế biến đạt chuẩn; công nghệ bảo quản để kéo dài “tuổi” nguyên liệu và chủ động nhịp bán. Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường khuyến nghị khối doanh nghiệp tăng tốc nâng cấp các mắt xích này, bởi chỉ cần độ trễ vài tuần trong hoàn thiện kho, nhà máy là chuỗi sẽ “tắc” đúng lúc vụ thu đông vào cao điểm.
Khi hạ tầng tốt, doanh nghiệp có thể tạm trữ chiến lược, chờ thời điểm giá và đơn hàng thuận lợi hơn, thay vì bán vội dưới sức ép quay vòng vốn. Dữ liệu giá trong nước những ngày qua cho thấy, nền tảng cung - cầu vẫn được duy trì, "dòng chảy" gạo vẫn hiện hữu ở nhiều phân khúc, nhất là gạo chất lượng cao, nếu chuỗi liên kết giữ nhịp thu mua, xay xát, giao hàng theo lịch thời vụ.
Ông Lê Thanh Tùng, Tổng thư ký Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam. Ảnh: Bảo Thắng.
Từ lợi thế cạnh tranh đến tầm nhìn dài hạn
Trong khi câu chuyện liên kết được coi là “lá chắn” để giảm sốc ngắn hạn, nhiều ý kiến tại cuộc họp sáng 11/9 nhấn mạnh, rằng lúa gạo Việt cần một tầm nhìn xa hơn, lấy lợi thế mùa vụ làm nền và xây dựng chiến lược quốc gia đủ sức dẫn dắt thị trường.
Ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, cho biết 4 tháng cuối năm, sản lượng lúa dự kiến đạt thêm 13,8 triệu tấn, trong đó riêng vụ thu đông - vụ lúa đặc thù của Việt Nam sẽ cho khoảng 6 triệu tấn ở ĐBSCL.
Đây chính là lợi thế về mùa vụ, khi nhiều quốc gia cùng khu vực không thể canh tác trong khoảng thời gian này do thời tiết bất lợi. “Nếu tổ chức sản xuất bài bản, kiểm soát tốt sâu bệnh và lịch thời vụ, vụ thu đông sẽ trở thành ‘đệm an toàn’ cho xuất khẩu”, ông Đạt nhấn mạnh.
Quan điểm này gặp gỡ với góc nhìn của ông Lê Thanh Tùng, Tổng thư ký Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam, nguyên Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt. Ông Tùng xem lúa thu đông là chìa khóa để Việt Nam không bị động trước những cú ngừng nhập khẩu như từ Philippines.
Với chất lượng gạo ổn định, các giống chủ lực như Đài thơm 8 hay OM18 đang được kiểm soát tốt, Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động nguồn hàng, tránh lệ thuộc vào vụ đông xuân - vốn thường trùng thời điểm Philippines đẩy mạnh mua vào.
Ông Tùng lưu ý thêm, Philippines có truyền thống ưa chuộng gạo Việt Nam, và trong 2 tháng cuối năm quốc gia này thường tăng nhập khẩu để phục vụ Tết, với nhu cầu dự báo khoảng 1 triệu tấn. Nếu chuẩn bị sẵn sàng nguồn cung từ vụ thu đông, doanh nghiệp Việt không chỉ đáp ứng được thị trường này mà còn mở rộng sang châu Phi, Trung Đông - nơi nhu cầu gạo chất lượng ngày càng tăng.
Gạo được thu mua tại kho của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Chơn Chính. Ảnh: NVCC.
Kết luận phiên họp, Quyền Bộ trưởng Trần Đức Thắng đánh giá, trong ngắn hạn, việc Philippines tạm ngừng nhập khẩu gạo chưa tạo ra tác động đáng kể đến xuất khẩu. Tuy nhiên, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ báo cáo để Thủ tướng chỉ đạo ngân hàng áp dụng chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp cơ cấu lại nợ, cũng như tháo gỡ kịp thời những vướng mắc về hoàn thuế VAT.
“Chúng tôi cam kết và đã có kế hoạch cử cán bộ, tham tán nông nghiệp để trực tiếp hỗ trợ hàng hóa nông, lâm, thủy sản, trong đó có gạo, đi ra thế giới”, người đứng đầu Bộ khẳng định.
Ông cho biết Bộ vừa bổ sung thêm 5 tham tán tại những thị trường trọng điểm, nhằm mở rộng xúc tiến thương mại, đa dạng hóa đầu ra. Đó là một phần trong nỗ lực giảm bớt sự phụ thuộc vào một vài thị trường truyền thống, đồng thời mở đường sang những thị trường giàu tiềm năng như châu Phi, Nam Mỹ.
Với quan điểm, đi tận nơi, tìm hiểu rõ thị hiếu, từ đó sắp xếp cơ cấu mùa vụ, chọn giống phù hợp, Quyền Bộ trưởng nhìn nhận, chỉ khi hiểu rõ khách hàng, hạt gạo Việt mới có thể đứng vững dài lâu.
Dưới góc độ chính sách, Quyền Bộ trưởng Trần Đức Thắng cũng lưu ý, giá lúa hiện khoảng 5.500 đồng/kg, thấp hơn nhiều so với các loại cây trồng khác. Nếu không tái cơ cấu, nông dân khó có động lực bám ruộng. Vì thế, ngoài gạo, cơ quan chuyên môn, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp cũng cần tính tới những nguồn thu bổ trợ từ sản phẩm phụ cận, để đời sống người trồng lúa được cải thiện và an tâm gắn bó.
Đặc biệt, ông nhấn mạnh việc thông tin phải được xử lý kịp thời. “Tin Philippines tạm ngừng nhập khẩu có thể khiến nông dân hoang mang, bị thương lái ép giá. Các Cục, Vụ phải chủ động nắm bắt tình hình, định hướng dư luận, để tránh những cú sốc không đáng có”.
Thông điệp cuối cùng từ lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường là: Thị trường gạo Việt cần cả hai cánh tay để ứng phó nhanh trong ngắn hạn và chiến lược dài hạn. Một mặt tháo gỡ tín dụng, thuế, xúc tiến thương mại để doanh nghiệp duy trì nhịp xuất khẩu. Mặt khác, khai thác lợi thế vụ thu đông, mở rộng thị trường mới, tái cơ cấu sản xuất để nông dân có lãi và có niềm tin. Chỉ khi đó, gạo Việt mới thực sự bước vào quỹ đạo bền vững.
Bảo Thắng